Xuyên tiêu Fixyfood

Cập nhật 11-02-2020
Xuyên tiêu còn gọi là Hoàng lực, Sơn tiêu, hoa tiêu, ở vùng núi phía bắc Việt Nam, người ta gọi Xuyên tiêu mà Mắc khén
Tên tiếng trung: 川 椒
Tên khoa học: Zanthoxylum simulans Hance
Họ khoa học: Họ Cam Quýt (Rulanceae)
Cây nhỏ leo với thân hơi đen, có gai, mọc thành bụi cao khoảng 1-2m, có nhiều nhánh màu đỏ nhạt, vươn dài có thể tới 10m, có gai ngắn, cong về phía dưới. Lá kép lông chim lẻ, mọc so le, dài 18-25cm, có 2-3 đôi lá chét mọc đối; phiến lá chét hình trái xoan, gốc tròn đầu nhọn, mép khía răng mỏng, mặt trên màu lục sẫm, mặt dưới nhạt hơn; hai mặt của gân chính đều có gai. Hoa mọc thành chùm hoặc thành chùm xim co, đơn độc hay tập hợp thành bó ở nách lá. Quả có 1 đến 5 ô dính quanh trục, có phần ngoài nhăn nheo, phần trong vàng, nhăn, như giấy da, tách ra được. Mỗi ô chứa một hạt, có vỏ dày, cứng bao bởi một màng màu đen nhánh.
Cây xuyên tiêu mọc ở Ðông Trung Quốc, Ðài Loan, Triều Tiên và các nước Ðông dương. Cây mọc ở ven rừng, núi đất và núi đá, lùm bụi vùng trung du ở nhiều nơi thuộc các tỉnh Lào Cai, Hòa Bình, Vĩnh Phú, Bắc Thái, Cao Bằng, Lạng Sơn qua Nghệ An, Hà Tĩnh tới Ðắc Lắc.
Rễ thu hái quanh năm, rửa sạch, thái nhỏ, phơi khô.
Quả đã mở mắt, trong có một hột đen; vỏ ngoài sắc nâu hồng, khô, thơm, vỏ trong trắng ít thơm. Vỏ đem phơi nắng đến thật khô, khi dùng sao qua, thấy thơm là được. Quả chưa mở mắt thì không nên dùng.
Theo Trung Y: Sao qua cho ra mồ hôi, còn nóng cho vào ống tre, dùng que cứng đâm giã cho tróc vỏ trong lấy vỏ ngoài mà dùng hoặc chỉ sao nóng đổ lên miếng giấy sạch đặt trên đất, lấy bát úp kín lại, đợi nguội lấy ra giã bỏ vỏ trong lấy vỏ ngoài mà dùng.
Theo kinh nghiệm Việt Nam: Dùng cả quả (vỏ và hột) sao qua thấy thơm, ướt mặt là được.
Bảo quản:
Đậy kín, để chỗ khô, ráo, tránh nóng.
Thành phần hóa học của xuyên tiêu:
Chủ yếu có chứa 1% tinh dầu với thành phần chủ yếu là limonen (44%), geranial (12,14%), neral (10,95%), linalol (6,84%). vv.
Vị thuốc xuyên tiêu
Vị cay, tính ôn.
Quy kinh
Vào kinh Phế, Tỳ và Thận.
Tác dụng:
Tán hàn, trục thấp, ấm trung tiêu, trợ hoả, hành thuỷ, làmthuốc giải độc, sát trùng.
Chủ trị:
Bụng lạnh đau, nôn mửa đi tả, trị lãi đũa, trị thấp, kiện vị.
Liều dùng:
Ngày dùng 3 - 6g.
Kiêng ky:
Âm hư hoả vượng thì không nên dùng.
Ứng dụng lâm sàng của xuyên tiêu:
Chữa các chứng trung tiêu hư hàn, bụng đau, nôn, không thích ăn, có lãi đũa:
Xuyên tiêu, Can khương, Nhân sâm. Sắc nước bỏ bã, gia đường phèn uống nóng. Tác dụng: Ôn trung bổ hư, giáng nghịch, chỉ thống. (Đại Kiến Trung Thang).
Trị hư lao, gối lạnh, liệt dương, tay chân mỏi:
Xuyên tiêu 40g, Lộc nhung 80g, Ngưu tất 60g, Nhục thung dung 40g, Phòng phong 1,2g, Phụ tử 40g, Quế tâm 1,2g, Thỏ ty tử 80g, Tục đoạn 40g, Viễn chí 1,2g, Xà sàng tử 40g. Tán bột, trộn với mật làm hoàn, to bằng hạt ngô đồng lớn. Mỗi lần uống 30 viên với rượu ấm. Tác dụng: Ôn thận dương, ấm lưng gối, mạnh gân xương. (Xuyên Tiêu Hoàn – Kê phong Phổ Tế Phương).
Trị vào tháng hè cảm hàn thấp, tiêu chảy không ngừng:
Nhục đậu khấu 20g, Xuyên tiêu 40g. Tán bột, trộn với bột gạo hồ làm hoàn. Ngày uống 12-16g với nước cơm. (Xuyên Tiêu Hoàn II – Tiểu Nhi Vệ Sinh Tổng Lục Phương).
Chữa rắn cắn:
Xuyên tiêu, phối hợp với hạt Hồng bì, rễ Ðu đủ làm thành bột bôi xung quanh vết cắn. (Kinh Nghiệm Dân Gian).
Chữa sỏi Gan, sỏi Mật:
Nhân trần 20g, Kim tiền thảo 30g, Cỏ xước 30g, Quả dứa dại 20g, Cỏ mực 16g, Chỉ xác 8, Cam thảo 4g. Sắc uống ngày 1 thang. (Lương Y Uông Nhuyến).
Xuyên tiêu có một vị cay mà không có thứ gia vị nào khác có thể thay thế được: cay như tiêu den và ớt nhưng lại có cảm giác tê nhẹ đầu lưỡi như uống nước có ga hoặc như đầu lưỡi bị chạm dòng điện nhẹ 9V. Trong các kỹ thuật nấu ăn của Tứ Xuyên thì vị cay của Xuyên tiêu được gọi là "ma", trong khi đó vị cay của tiêu đen và ớt được gọi là "lạt", sự kết hợp "ma- lạt" (cay & tê) tạo ra hương vị đặc trưng riêng của các món ăn Tứ Xuyên.
Ở Nhật Bản, lá và ngọn non của các loài cây cho Xuyên tiêu còn được dùng để trang trí cho các món cháo, canh, cá nước, tạo ra hương vị tuyệt vời.
Ở Việt Nam, thường phổ biến 2 loài cho Xuyên tiêu có là cây Sâng gai và sây Sẻn gai. Miền Trung từ Thanh Hóa vào đến Quảng Ngãi bà con thường dùng lá và ngọn non xào với thịt trâu, thịt bò trong các món đặc sản ẩm thực thiết đãi khách quý. Miền Bắc thì chủ yếu dùng quả từ cây Sẻn gai để làm tiêu, cho vị cay nồng hơn Xuyên tiêu Tàu, ngoài ra còn có thêm mùi thơm của chanh.